tê tê | tt. Hơi tê: Nghe tê-tê ở đầu lưỡi. // trt. Đành-đạch, bị giựt mạnh cả hai tay, hai chân, hay cả mình-mẩy: Bị đập một gậy, nằm giãy tê-tê. // (R) Nung-nẩy, giậm chân múa tay: Giận chồng, giãy tê-tê. // dt. Loài bò-sát giống kỳ-đà, vảy cứng: Trên trời có vảy tê-tê CD. |
tê tê | - Loài động vật có vú, không có răng, thân dài, đuôi rộng, có nhiều vẩy xếp như ngói ở toàn phía trên của thân. |
tê tê | dt. Thú quý hlếm, có ở các tỉnh miền núi và trung du phía bắc, Tây Nguyên, Nghệ An, Quảng Trị, cỡ nhỏ, nặng 5-7 kg, toàn thân phủ vảy sừng như lợp ngói, giữa các vảy có lông thưa, bàn chân trước 5 ngón, sống ở rừng ẩm nhiệt đới, ưa rừng trên đồi núi thấp nhiều cây mục nát, kiếm ăn đêm, ăn mối, kiến, ong đất, côn trùng, mỗi lứa đẻ 1-2 con, khi gặp nguy hiểm cuộn tròn như quả bóng; còn gọi là con trút, xuyên sơn giáp. |
tê tê | tt. Tê (mức độ giảm nhẹ) tay tê tê o Ngồi một lúc, chân đã tê tê rồi. |
tê tê | dt Loài động vật có vú, không có răng, thân dài, đuôi rộng, có nhiều vẩy xếp như ngói ở phía trên của thân: Đám mây lăn tăn có hình vảy tê tê. |
tê tê | tt Hơi tê: Cảm thấy tê tê ở chân. |
tê tê | tt. Hơi tê. |
tê tê | dt. (đt) Loại bò sát, hình giống con kỳ đà, có vảy cứng. |
tê tê | .- Loài động vật có vú, không có răng, thân dài, đuôi rộng, có nhiều vẩy xếp như ngói ở toàn phía trên của thân. |
tê tê | Hơi tê. |
tê tê | Loài bò sát hình như con kỳ đà, có vảy cứng. Văn-liệu: Trên trời có vảy tê-tê. (C-d). |
Người con gái đa tình xa nơi phần tử đêm nằm bỗng thấy buồn tê tê ở trong long vì chợt nhớ đến một câu hát cũng còn nhớ được lúc mẹ ru , khi còn bé , ở đất Bắc xa xôi : Buồn vì một nỗi tháng hai Đêm ngắn ngày dài , thua thiệt người ta ! Yêu quá cái đêm tháng hai ở đất Bắc ; thương quá cái đêm tháng hai ở Bắc , thành ra cái gì cũng thấy qua đi nhanh quá. |
Gặp những ngày trời đất xuống màu như thế , người khách xa nhà cả trăm người như một , đều cảm thấy buồn tê tê trong lòng mà tự nhủ : “ờ , đúng là mùa thu ở Bắc… Trời này có rượu ngon đem uống thì tuyệt trần đời !”. |
Tôi nhớ lại có những buổi chiều vô liêu tháng chín , trời lạnh , gitê têtê buồn , không đi ra ngoài , ăn cơm xong , tráng miệng bằng cam rồi không biết làm gì ngồi châm một ngọn đèn dầu lên hút thuốc rồi lấy những cái vỏ cam bóp và ngọn lửa ; nước ở trong vỏ tia ra làm bùng ngọn lửa đèn , tạo cho mình một sự thích thú và hồi hộp lạ. |
Cá làm thành bao nhiêu món , cá tạo nên bao nhiêu là bài thơ , nhưng chỉ lạ có một điểm là làm sao không ai làm chả cá để đến nỗi phải đợi sau khi di cư đến bảy tám năm trời mới có hai ba nhà làm món ấy để cho các ông ghiền món ăn này “xài đỡ” ! ? Đi chơi mười một quận đô thành , đi khắp cả các Vàm Đông , Vàm Láng , Vàm Tây , Bãi Xầu , Sóc Trăng , Bạc Liêu xưa kia nổi tiếng về nghề đóng đáy thả lưới , quăng chài để bắt cá bắt tôm mà cũng nổi tiếng luôn là có nhiều các chú : Bạc Liêu nước chảy lờ đờ , Dưới sông cá chốt , trên bờ Triều Châu thật quả tôi chưa thấy một người Tàu nào làm chả cá trong khi bao nhiêu món ăn Bắc như phở , bánh dẻo (1) , thang , cuốn , thịt cầy , lươn , ếch , họ đều làm tuốt để bán cho người mình thưởng thức ! Tại chả cá khó làm ? Tại có một bí quyết riêng ướp chả ? Hay tại vì cá anh vũ dùng làm chả không ở đâu có ngoài Bắc Việt ? Điều đó chưa có người nào nghiên cứu nhưng hồi còn ở Hà Nội , mỗi khi ngồi tán chuyện gẫu với Hy Chả Cá (2) mà thấy có những người Tàu ở Hồng Kông về đặt mua cả trăm cả ngàn “gắp” với đủ rau , hành , nước mắm , bánh đa , cà cuống , mắm tôm , chanh ớt để đưa lên máy bay chở hoả tốc về Hồng Kông ăn nhậu thì tự nhiên mình cũng thấy sutê têtê tê vì người mình đã sản xuất được một món ngon đặc biệt mà chính ba tàu nổi tiếng là nước “kén ăn” cũng phải mua của ta để xài ! Nghĩ như thế rồi ăn một bữa chả thật ngon , được chủ nhân để dành cho vài chục gắp “lòng” , chan mỡ nước kêu lách tách , rồi uống nước trà mạn sen , ăn một miếng trầu nóng ran cả người lên , đoạn đi ngất ngưởng trong gió lạnh , tìm một cái xe bỏ áo tơi cánh gà trực chỉ Khâm Thiên hay Vạn Thái nghe một vài khẩu trống , không , anh phải nhận với tôi là cái bọn tiểu tư sản sống vô bổ và đầy tội lỗi thực đấy nhưng sướng lắm – sướng không chịu được. |
Lúc ấy , nằm mà lắng tai nghe những hạt mưa nặng hơn lúc ban ngày rơi lộp bộp trên mái ngói , người ta , dù hãy còn nhỏ nhít , cũng thấy buồn tê tê , nhưng buồn nhất đêm đông ở Bắc Việt là tiếng rao “giò giầy” và tiếng một người ăn mày từ ở tít đàng xa vọng tới , ví cái thân mình với con cá : “con cá nó sống vì nước , con sống về cửa ông cửa bà”. |
Cũng may mà cứ vào tháng chạp , ở đây , thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm cho người thức khuya cảm thấy da tê tê , lành lạnh mà nghe như thấy tết đến xuân về trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào , chớ cứ nắng chói chan , khô héo liền liền thi chỉ thương nhớ mà héo hắt đi , sống làm sao cho nổi. |
* Từ tham khảo:
- tê thấp
- tê-tơ-ra-xi-lin
- tê tứ biên
- tềl
- tề
- tề