Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ (1651) và những ảnh hưởng của nó trong việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt

Alexandre De Rhodes (1591-1660) là một giáo sĩ Dòng tên, người Pháp và sinh ở Avignon. Ông học hành ở Roma. Ông sống và truyền đạo ở Cochichine (Trung và Nam Kỳ) hơn ba năm (1624-1627), sau đó ông đi Tonkin (Bắc kỳ) và ở đó khoảng ba năm (1627-1630). Ông rời Annam đến sống ở Macao mười năm (1630-1640). Ông trở lại Cochichine sau 13 năm và ở lại đó bốn năm (1640-1645) trước khi ông sang Ba Tư.

         Alexandre De Rhodes viết nhiều tác phẩm về Việt Nam, trong đó có  hai tác phẩm quan trọng là Catechismus (Phépgiảng tám ngày) (1651) và Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt - Bồ - La) (1651). Đây là những công trình tác giả xây dựng dựa trên các nghiên cứu của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và Italia đặt chân đến Việt Nam trước ông, trong đó phải kể đến Francisco de Pina và Cristoforo Borri, đây là những nhà truyền giáo sử dụng tiếng Việt rất lưu loát.

 

1.      Sơ lược Ngữ Pháp Đắc Lộ

         Trong Dictionarium, Alexandre De Rhodes dành phần lớn nội dung 6 trên 8 chương) để xử lý vấn đề phân loại từ trong tiếng Việt. Ngoài chương 1 (Chữ và Âm tiết trong tiếng Việt) và chương 2 (Thanh và các dấu khác trong các nguyên âm), sáu chương còn lại, De Rhodes luận bàn đến những nội dung sau: chương 3: Danh từ, chương 4: Đại từ, chương 5: Các đại từ khác, chương 6: Động từ, chương 7: Các từ loại phi biến cách khác và chương 8: các nguyên tắc liên quan đến cú pháp. Như vậy, tác giả đã phân định bảy từ loại trong tiếng Việt: danh từ (bao gộp cả tính từ), động từ, đại từ, giới từ, trạng từ, thán từ và liên từ. Dưới đây, chúng tôi trình bày cách thức cũng như cơ sở mà De Rhodes sử dụng để xác lập bảy kiểu từ loại trên của tiếng Việt.

         Từ loại được xác định dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ pháp tiếng latin. Tiêu chí này được xác lập dựa trên sự chuyển dịch tiếng Việt sang tiếng Latin.

 

1.1.Danh từ

         Theo tác giả, tiếng Việt có những từ luôn luôn là danh từ như blời = coelum, đất = terra, người = homo…. Bên cạnh đó, còn những từ lưỡng khả, và cương vị từ loại của những đơn vị này được xác định bằng ngữ cảnh. Tác giả đưa ra ví dụ về từ “chèo”:

 

         a.1. Thuièn nầy có hai chèo (cymba haec habet duos remos)

         a.2. Tôi chèo  thuièn nầy (ego remigo cymbam hanc)

 

Từ “chèo” trong (a.1.) là danh từ, còn từ “chèo” trong (a.2.) là động từ. Liên quan đến các phạm trù ngữ pháp của danh từ như số đơn, số phức, tác giả cho biết muốn nói số nhiều hay số ít thì “đặt thêm từ ở trước hay ở sau vì trong danh từ không có biến cách, không có số, không có cách...” Tuy nhiên, tác giả lại cho rằng “những phạm trù này có thể được lý giải bằng một sự tương đồng nào đó với ngôn ngữ của chúng ta”.

         Tác giả cho rằng để diễn đạt ý nghĩa số tiếng Việt sử dụng các tiểu từ có nghĩa phổ quát như coên (quân), các, mọi, nhềo (nhiều), muân (muôn), hết,  hoặc sử dụng các từ chỉ về một loại hay một giống sinh vật nào đó không cần thêm tiểu từ mà vẫn chỉ số nhiều: mua gà, lợn (emere gallinas, porcos), hoặc hai danh từ cùng loại kết hợp với nhau cũng chỉ số nhiều: cây cối, hoa quả, anh em, hoặc thêm vào trước hay vào sau danh từ một từ khác: người: homo (số ít); người ta: homines (số nhiều).

 

         Về giống của danh từ, De Rhodes cho rằng chỉ có những vật hữu sinh mới có. Mốt số từ chỉ dùng để chỉ giống đực, và một số từ chỉ dùng để chỉ giống cái:

         Đối với danh từ chỉ gia cầm: gà mái (mái: fēmĭna): gallīna; gà trống (trống: mascŭlus): gallus

         Đối với danh từ chỉ gia súc: bò cái (cái: fēmĭna): vacca; bò đực (đực: mascŭlus): bōs

 

         Về cách, mặc dù De Rhodes đã phát biểu rằng danh từ tiếng Việt không có cách (casus), nhưng ông vẫn đưa ra một danh sách bao gồm các cách (dẫn theo Nguyễn Khắc Xuyên, tr.88) vốn tồn tại rất lâu trong ngữ pháp tiếng Pháp:

Cách/Cāsŭs

Số ít/Singŭlāris

Số nhiều/Plūrālis

Danh cách

Nominativus

thàng nầy

(pŭĕr istĕ)

những thàng nầy

omnes pueri isti

Thuộc cách

Genitivus

cha thàng nầy

(pătĕr pueri huius)

cha hai thàng

pater duorum puerorum

Tặng cách

Dătīvus

cho thàng nầy áo

(do puero huic vestem)

cho nón thàng

do galerum tribus pueris

Đối cách

Accūsātīvus

Keo (kêu thàng nầy

(voca puerum hunc)

dạy thàng nầy

doceo omnes pueros

Hô cách

Vocativus

ơ thàng kia

(ò puer ille)

ơ bốn thàng kia

o quatuor illi pueri

Trạng (Ly) cách

Ablātīvus

bởy thàng nầy

(à puero hoc)

bởy các thàng

ab omnibus pueris

 

Nhận xét:

         Như vậy, dễ dàng nhận ra việc miêu tả từ loại danh từ cùng với những phạm trù liên quan đến từ loại này của De Rhodes hoàn toàn dựa trên từ loại danh từ của tiếng Latin và hoàn toàn dựa trên nghĩa sở chỉ của danh từ liên quan.

 

1.2.Tính từ (adiectīvum)

Từ loại này không được tác giả khảo sát thành chương riêng như danh từ, đại từ hay động từ, mà ông chỉ khảo sát tính từ nằm trong kết hợp biểu thị ý nghĩa so sánh hay so sánh cực cấp. Ý nghĩa so sánh và so sánh cực cấp được đánh dấu bằng các biến cách của tính từ trong tiếng Latin (altus: cao và dạng so sánh: altior: cao hơn; altissimus: cao nhất hay rất cao). Nếu tính từ nào không có biến cách so sánh hay so sánh cựa cấp, trạng từ magis (hơn) được sử dụng (pius: sùng đạo, dạng so sánh: magis pius; so sánh cực cấp: maxime pius: sùng đạo nhất; rất sùng đạo). Tác giả sử dụng nghĩa của hệ thống biến cách hay các trạng từ so sánh trong tiếng Latin áp vào tiếng Việt để khảo sát tính từ mà không hề đưa ra bất kỳ định nghĩa nào:

Hoa nầy tốt hơn hoa kia: flos hic pulcher magis flor illo

Blái (Trái) này lành hơn blái nọ: fructus hic est magis bonus fructuristo…   

Để miêu tả so sánh cực cấp trong tiếng Việt, De Rhodes dùng hai tiểu từ cực rứt (rất) : cau (cao): altus, rứt cau: altissimus; mlớn (lớn): magnus, cực mlớn: maximus, v.v. Theo tác giả «rứt» (rất) dùng với nghĩa tích cực, còn «cực» dùng với nghĩa tiêu cực, được phóng đại (tr.13): Tôi đã cực : ego iam perveni ad summam miseriam (tôi đã đạt đến đỉnh của sự cùng cực).

Ngoài ra, theo tác giả một số trạng từ như lám (lắm), ráp, thay, v.v. (valde) có nghĩa là rất tốt, rất nhiều và bao giờ cũng đặt sau tính từ (tr.14): mlớn thay:magnus valde; đẹp lám: pulcher valde… 

Nhận xét :

         Từ loại này trong tiếng Việt được A. De Rhodes miêu tả, cũng như danh từ ở phần trên, dựa trên từ loại tính từ tiếng Latin và vì vậy có nhiều chỗ mang tính áp định, không lý giải một cách tường minh.

 

1.3.Đại từ

         De Rhodes nhận ra sự phức tạp của lớp từ xưng hô trong tiếng Việt do gắn liền với sự phân chia giai tầng xã hội phức tạp. Do đó, ông dành ra đến hai chương để nói về từ loại này. Ông phân đại từ tiếng Việt thành hai loại: đại từ nguyên thuỷ và các đại từ khác.

 

a.          Đại từ nguyên thuỷ (Primitivorum prominum)

         Cách sử dụng loại đại từ này gắn liền với địa vị và giai tầng xã hội. Tác giả phân loại đại từ này thành ba ngôn như trong tiếng Latin:

Số

Ngôi thứ nhất

Ngôi thứ hai

Ngôi thứ ba

Địa vị XH

cao

thấp

cao

thấp

cao

thấp

Số ít

tao, ta,

qua, tôi, tớ

f

mày, ngươi

       f

Số nhiều

min (mình)

chúng + các từ số ít

f

bay

f

chúng nó

 

Nhận xét:

-   Với việc sử dụng những từ mà De Rhodes gọi là đại từ nguyên thuỷ ngôi thứ nhất, người ta dễ dàng nhận thấy tác giả có một sự quan sát tinh tế về phương diện ngôn ngữ học xã hội và nhận biết được sự thay đổi của những từ này tuỳ vào địa vị xã hội hay quyền lực của người phát ngôn trong quan hệ với người nghe.

-   Riêng về những đại từ, theo thuật ngữ của tác giả, ngôi thứ hai, có một sự bất cân đối: những từ để xưng hô với người nghe có vị trí xã hội thấp hơn người nói được ghi nhận một cách rất rõ ràng. Tuy nhiên, trong việc xưng hô với người nghe có địa vị ngang bằng hay cao hơn của người Việt, tác giả nhận thấy người Việt sử dụng các danh từ chỉ quan hệ thân tộc, các danh từ chỉ chức tước…Như vậy, tác giả không phân định đại từ nhân xưng và danh từ thân tộc hay danh từ tước vị. Hạn chế này không giảm nhẹ giá trị của phát kiến người Việt dùng từ thân tộc để xưng hô.

-   Tình hình tương tự với đại từ ngôi thứ ba. Ngoài “nó” và “chúng nó”, tác giả cũng rất tinh ý khi nhận xét rằng người Việt khi nói về người khác “bằng vai” với mình, họ dùng danh từ “người” với nghĩa “con người ấy”.  Về số nhiều của đại từ ngôi thứ ba, De Rhodes nhận thấy cần phải áp dụng những quy tắc dành cho việc hình thành danh từ số nhiều đã nói ở trên, tức là, cần phải thêm các tiều từ như các, những…vào trước danh từ “người ấy”: những người ấy

-   Điều quan trọng nhất trên bình diện ngữ học là tác giả không phận định đại từ nhân xưng và danh từ chỉ quan hệ thân tộc dùng để xưng hô, cũng như việc chuyển nghĩa của các từ như ‘tôi”, “tớ”, theo chúng tôi đây là những từ phái sinh từ “tôi tớ” trong tiếng Việt. Điều này rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc quan niệm tiếng Việt có đại từ nhân xưng về sau này.

         Ngoài ra, các đại từ nguyên thuỷ còn bao gồm đại từ tương hỗ và đại từ chỉ định (Demonstrativa). De Rhodes cho rằng tiếng Việt dùng từ “mình”như trong ai néy lo sự mình hoặc lặp lại danh từ cho lo viẹc cha, con lo viẹc con…Hoặc các đại từ chỉ định như nầy, nấy,  éy (ấy) hay nọ, kia, te (tê)…luôn đặt sau danh từ như đàng nọ đàng kia, viẹc này viẹc nọ

         Sự miêu tả các tiểu loại đại từ như vậy cho thấy tác giả nhoàn toàn dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa, nói cách khác tác giả lấy tiếng Latin soi rọi cho việc miêu tả tiếng Việt.

 

b.         Đại từ khác

Những đại từ khác được De Rhodes miêu tả trong chương V của từ điển bao gồm những từ có cách dùng tương ứng với tiếng Latin được tác giả gọi là đại từ quan hệ và những từ nghi vấn mà tác giả gọi là đại từ nghi vấn. Về đại từ quan hệ, De Rhodes cho rằng tiếng Việt không có đại từ quan hệ thật sự như tiếng Latin (qui, quae, quod), nhưng người ta có thể hiểu việc đặt danh từ ở đầu câu để tạo ra câu bị động được De Rhodes xem là một kiểu biểu thị đại từ quan hệ trong tiếng Việt: từ câu mày đăọc sách (tu legis librum), nếu chuyển sách ra đầu câu sách mày đăọc  (liber a te lectus) hoặc sách mà mày đăọc  (liber quem tu legis) được hiểu là câu bị động và trật tự như vậy được xem là tương đương với trật tự của câu có đại từ quan hệ. Người ta cũng dễ dàng bắt gặp quan điểm này khi đọc tác phẩm của Alexandre De Rhodes: ngoài việc chuyển danh từ ra đầu câu như trên, tác giả còn cho rằng mô hình Ai + VT + thì + VT trong tiếng Việt hành chức như câu có đại từ quan hệ trong tiếng Latin hoặc tiếng Pháp: Ai muấn thì làm (qui vult is faciat); Ai có cơm thì ăn (qui habet coctam orizam, is edat)… hoặc dùng DT – nào – VT – thì – VT: Bò nào bèo thì mạnh (Bos qui est pinguis, is est fortis); Thàng nào lành thì deạy (puerum est bonus sive bonae indolis, hunc doce)

Ngoài ra, De Rhodes cũng miêu tả đại từ nghi vấn trong tiếng Việt dựa trên hệ thống Latin tương ứng. Tác giả miêu tả đại từ nghi vấn thông qua từ “ai” và các ví dụ có “ai” nhưng đặt trong hệ thống cách của tiếng Latin. Do đó, tác giả cho rằng “ai có thể chia theo biến cách để hỏi” (dẫn theo NKX, tr.102):

Danh cách:         ai đến?                        quis venit ?        

Thuộc cách :      áo ai ?                         vestis cuius ?

Tặng cách :        cho ai ?                       datur cui?

Đối cách:           keo (kêu) ai?               Vocas quem?

Trạng cách:        đi (cùng) ai?           Is cum quo?

 

Tác giả còn bổ sung “về số nhiều thì có thể thêm tiểu từ những hay dững” (dẫn theo NKX, tr.102). Trong phần này, tác giả cũng đề cập đến những từ nghi vấn khác như nào, gì, mấy, v.v. và tất nhiên những từ này được miêu tả trong tương quan với đại từ nghi vấn tiếng Latin.  

 

Nhận xét:

Việc miêu tả các đại từ trong tiếng Việt càng làm rõ việc tác giả chú giải cách dùng những từ mà tác giả gọi là đại từ trong tiếng Việt hoàn toàn dựa trên hệ thống cách của tiếng Latin. Tương tự như trên, việc miêu tả đại từ tiếng Việt được thực hiện qua việc chuyển dịch từ tiếng Việt sang tiếng Latin, qua đó tác giả xác định quan hệ tương ứng giữa tiếng Việt và tiếng Latin. Sự miêu tả như vậy tỏ ra thiếu chính xác và không đáng tin cậy: trật tự từ là phương tiện cú pháp chứ không phải phương tiện xác định từ loại như chính ví dụ về từ “ai” của tác giả là minh chứng cho nhận định này.

 

1.4.   Động từ

         Alexandre De Rhodes khi miêu tả động từ trong tiếng Việt không đưa ra bất kỳ định nghĩa nào về động từ mà ông chỉ sử dụng các khái niệm biểu thị các phạm trù ngữ pháp liên quan mật thiết với động từ tiếng Latin.

 

a.       Về số (nŭmĕrus), ngôi (persona) của động từ: tác giả cho rằng hai phạm trù ngữ pháp này của động từ này được xác định dựa trên các đại từ đi trước:

 

Ngôi

thứ nhất

thứ hai

thứ ba

Số đơn

tôi iêo: ego amo

mày iêo: tu amas

nó iêo: ille amat

Số phức

chúng tôi iêo: nos amamus

chúng mày iêo: vos amatis

chúng nó iêo: illi amant

 

Tác giả còn lưu ý đến nguyên tắc danh dự đã nói ở phần liên quan đến đại từ nhân xưng.

 

Nhận xét: Tác giả không phân biệt khái niệm “ngôi” với tư cách là vai giao tiếp với “ngôi với tư cách là một phạm trù ngữ pháp của động từ.  Việc xác định “số” cũng dựa hoàn toàn trên cứ liệu ngữ nghĩa trong tiếng Latin.

 

b.      Về thì (tempora): tác giả miêu tả cái gọi là “thì” trong tiếng Việt dựa hoàn toàn trên hệ thống khái niệm tiếng Latin, nhưng ông cũng nhận thấy là động từ tiếng Việt không thay đổi hình thái hay không biến hình như tiếng Latin nên ông cho rằng để biểu thị “thì” tiếng Việt thêm “mấy tiểu từ” vào. Tuy nhiên, ông cũng rất “tinh ý” khi cho rằng khi biểu thị thì hiện tại (Præsens) không cần phải thêm tiểu từ vào:

 

Tôi mạc việc bây giờ : ego occupor negotio nunc

 Tác giả cho rằng “mạc việc” ở thì hiện tại vì động từ “occŭpor” trong tiếng Latin là hình thái hiện tại của nguyên mẫu động từ “occŭpo”. Tương tự, tác giả cho rằng “thời quá khứ chưa hoàn thành” (imperfectum) trong tiếng Việt cũng không cần thêm tiểu từ vào:

 

         Hôm qua tôi mạc chép thư, nói chảng được

         Hĕrī occŭpābar scribendis literis, lŏqui non poteram.

                      ,            Hĕrī

occŭpābar

scribendi

literis

lŏqui

non

poteram

Trạng từ : hôm qua

occŭpo: bận

ngôi thứ 1, số ít, thì quá khứ chưa hoàn thành.

(scrībo: viết)

vị danh từ, thuộc cách

literă: thư

ly cách (ablatif), số nhiều

“nói”, động từ nguyên mẫu

trạng từ: không

động từ nguyên mẫu “possum”: có thể, ngôi thứ 1, số ít, thì quá khứ chưa hoàn thành.

 

Còn thì quá khứ hoàn thành (perfectum), khi muốn diễn đạt cần phải thêm tiểu từ « đã » vào:

 

         đã về : iam rediit 

         (iam: đã; rediit: về, ngôi thứ 3, thì quá khứ hoàn thành của rĕdĕo)

        

         đã nói: iam (đã) loquutus est

         (iam: đã; loquutus est (ngôi thứ ba, thì quá khứ hoàn thành của lŏquor: nói)

Ngoài ra, tác giả còn dùng khái niệm « thì tiền quá khứ » để miêu tả sự việc kết thúc trước một sự việc khác trong quá khứ :

         Hôm kia khi oũ (ông) đến, đã chép thư đoạn. (Hôm kia, khi anh đến, tôi đã viết thư xong)

         Nūdĭus tertĭus cum venisti, epistolas iam scripsĕram.

 

Nūdĭus tertĭus

cum

venisti

epistolas

iam

Scripsĕram

Trạng từ : Hôm kia

trạng từ : khi

vĕnĭo : đến

ngôi thứ 2, số ít, thì quá khứ hoàn thành (perfectum)

ĕpistola: thư

đối cách, số nhiều

 

trạng từ : đã

scrībo: viết

ngồi thứ 1, số ít, thì tiền quá khứ

(plusquam perfectum)

 

 

Khi diễn tả thời tương lai (Futurum), tiếng Việt dùng « sẽ »:

 

sẽ đi: ego statim ibo (ego: đại từ ngôi thứ nhất, số ít, danh cách ; statim: trạng từ: sớm ; ibo là động từ, thì tương lai, ngôi thứ 1, số ít của động từ ĕo: đi) 

Trường hợp không có các tiểu từ, cần phải dựa vào cách nói. Chẳng hạn «ai làm?» tương ứng với Quis fecit? (fecit ở ngôi thứ 3, số ít, thì quá khứ hoàn thành của făcĭo). Ngoài ra, việc đặt « bao giờ » ở đầu hay cuối câu hỏi cũng cho biết thì tương lai (ở đầu) hay thì quá khứ (ở cuối)…

        

c.       Về thức (Modi)

Liên quan đến một phạm trù ngữ pháp khác của vị từ, De Rhodes cũng cho rằng tiếng Việt cũng có thức (modi) và cũng phân chia phạm trù ngữ pháp này thành những thức như sau :

 

         Thức trần thuật ( indicativus modus)

Theo tác giả, thức này trong tiếng Việt được đánh dấu khi ngôi đi liền với động từ và không thêm bất kỳ tiểu từ nào khác: tôi đi : ego eo.

 

         Thức cầu khiến (imperativus modus )

Thức này được đánh dấu bằng các tiểu từ đi, hãy, chớ, đừng…Ngoài ra, tác giả còn cho rằng thức mệnh lệnh còn được thì bằng hai động từ ra bveào (vào) đặt ở sau động từ chính: léy (lấy) áo ra (affer vestem), cất sách bveào (renconde librum)…

 

         Thức ước vọng ( optativus modus)

 Thức này được biểu thị bằng chớ gì: chớ gì tôi kính mến Chúa tlên hết mọi sự (utinam amen Dominum super omnia).

 

         Thức giả định (coniunctivus modus)

Thức này được biểu thị bằng các tiểu từ nếo (nếu: si): nếo hăọc thì biét (nếu họ thì biết: si didiceris tunc scies), …có…thì…: có đi thì đến (si ivenis pervenis), hay dầu: dù mà co tài thì phải hăọc (dẫu/dù có tài vẫn phải học: etiamsi habeas ingenium debes studere).

 

         Thức vô định (infinitivus modus)

Tác giả cho rằng thức vô định được biểu thị kghi động từ đứng một mình mà không có đại từ đứng trước hoặc khi hai động từ đi liền nhau, động từ đi sau thuộc thức vô định:

 

Kính mến Chúa tlên hết mọi sự (Amare Deun super omnia)

y phải làm : tibi convenit ăgĕre (tibi tặng cách của tu, ăgĕre là dạng vô định của động từ ăgo).

 

Trường hợp hai động từ đi liền nhau cùng có nghĩa gần nhau thì động từ theo sau không nhất thiết phải ở thức vô định (tr.25): thầy deạy deổ (dạy dỗ) người ta (magister docet homines).

 

         Thức vị danh từ (gerundium modus)

         Tác giả sử dụng hệ thống biến cách của thức vị danh từ trong tiếng Latin để miêu tả cái gọi là « thức vị danh từ » trong tiếng Việt. Trong tiếng Latin, gerundia đều có ba biến cách để biểu thị bốn cách sau: thuộc cách: Tempus legendi (giờ đọc sách), dữ/tặng cách: Inutilis scribendo (viết cũng vô ích), đối cách: Legit ad addiscendum (đọc để học), và ly cách: Legendo doctus eris (Đọc sách giúp ta trở nên uyên bác).

·         Thức vị danh từ tương đương với thức vị danh từ tiếng Latin có biến cách –di (thuộc cách): đã đến giờ hăọc : advenit hora addiscendi (học là định ngữ của danh từ giờ nên thức vị danh từ addiscendi  ở thuộc cách.

·   Thức vị danh từ tương đương với thức vị danh từ tiếng Latin có biến cách –do (ly cách) được đánh dấu bằng tiểu từ thì: an thì mới no: edendo saturaberis, làm thì mới giàu: faciendo ditaberis (trong tiếng Latin edo/ăn hay făcĭo/làm biểu thị điều kiện hoặc cách thức nên được đánh dấu biến tố -do).

·   Thức vị danh từ tương đương với thức vị danh từ tiếng Latin có biến cách –dum (đối cách) được giải thích rõ ràng nhờ tiểu từ mà : Tôi ngồi nghe : ego sedeo ad audiendum; đôi khi được hiểu ngầm : mầy đi (mà) làm việc : ito ad faiendum opus (trong tiếng Latin, các động từ biểu thị mục đích đứng sau ad được chia ở đối cách và được đánh dấu bằng biến cách ­–dum).  

 

d.      Về thái hay dạng bị động

Tác giả cho rằng động từ tiếng Việt không có thái bị động (Passiva propriè non dantur, tr.28). Người ta có thể nói việc này đã đoạn : hoc opus iam factum est  mà không cần thêm bất kỳ tiểu từ nào vào.

 

Nhận xét:

-   Hệ thống khái niệm dùng để miêu tả khái niệm các phạm trù ngữ pháp của động từ như thì, thức, thái...là những thuật ngữ của ngữ pháp Latin được tác giả sử dụng để miêu tả động từ tiếng Việt. Sự áp định những nhãn ngữ pháp này không thích hợp và chỉ có một mục đích là giúp cho những người biết tiếng Latin hiểu rõ hơn về động từ và các phạm trù ngữ pháp liên quan đến nó khi phải chuyển dịch từ tiếng Việt sang ngôn ngữ này. Để dễ hình dung hơn, chúng ta có thể nói Alexandre De Rhodes mượn tiếng Việt để thuyết giảng về tiếng Latin. Bằng chứng rõ ràng nhất, thuyết phục nhất là việc ông miêu tả thức vị danh từ «bằng» tiếng Việt mà chúng tôi vừa giới thiệu ở phần trên.

-   Sự áp định nhãn ngữ pháp kiểu này cho thấy tác giả không phân biệt hình thức và nghĩa của ngôn ngữ. Tất nhiên, nói như vậy không phải để phê phán tác giả mà để thấy được khuynh hướng nghiên cứu ngữ học thời bấy giờ đều lấy ngữ pháp tiếng Latin làm chuẩn mực. Không riêng gì với tiếng Việt mà kể cả những thứ tiếng như tiếng Pháp, tiếng Anh…

-   Việc miêu tả động từ tiếng Việt dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa nhưng sử dụng các nhãn ngữ pháp của tiếng Latin, tức một thứ tiếng biến hình đặc trưng, đã dẫn đến những nhận định thiếu chính xác về động từ tiếng Việt và đặc biệt là về những phạm trù liên quan đến động từ. Hay nói cách khác là tác giả khi đề cập đến những phạm trù hay hiện tượng ngữ pháp nhưng không dựa trên cơ sở ngữ pháp mà lại dùng tiêu chí ngữ nghĩa để biện giải.

-   Mặc dù vậy, tác giả cũng có những quan sát rất thú vị, chẳng hạn như tác giả cho rằng động từ tiếng Việt không có thái bị động và không có vị tính từ (phân từ). Đây là nhận định hoàn toàn chính xác. Một phần, có lẽ tác giả không tìm thấy một hình thái hay một kiểu cấu trúc nào đó tương đương với thái bị động trong tiếng Latin nên tác giả mới đưa ra nhận định như vậy. 

 

Nhận xét chung

-   Việc lý giải chi tiết cách sử dụng từ ngữ tiếng Việt trong phần dẫn nhập của từ điển Việt - Bồ - La cho thấy A. De Rhodes đã tiếp cận rất sát cách sử dụng ngôn ngữ thường nhật của người Việt, và đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ gắn với giai tầng xã hội được đề cập khá chi tiết (một nội dung được ngôn ngữ học xã hội khảo cứu torng ngôn ngữ học hiện đại). Điều này cho thấy tác giả am hiểu phong tục, tập quán của người Việt và tác giả đã áp dụng triệt để mô hình miêu tả của ngữ pháp định chuẩn (prescriptive grammar) của tiếng Latin trong việc miêu tả tiếng Việt.

-   Đối tượng khảo sát của tác giả có vẻ hạn chế, không mang tính đại diện, trong đó có lẽ phải kể đến các nhà truyền giáo nước ngoài có khả năng sử dụng tiếng Việt với mục đích hoàn thành sứ mệnh của mình. Điều này đã dẫn đến rất nhiều sự thiếu chính xác trong việc miêu tả tiếng Việt.

-   Dấu ấn tiếng Latin rất rõ trong việc A. De Rhodes miêu tả từ loại tiếng Việt, khiến người ta có cảm giác tiếng Việt rất giống tiếng Latin. Tác giả từ điển Việt - Bồ - La miêu tả tiếng Việt bằng cách đưa tất cả các từ tiếng Việt cần miêu tả vào trong một cái khung ngữ pháp-từ vựng định sẵn trong tiếng Latin. Vì lẽ đó, người ta dễ dàng bắt gặp trong tác phẩm này các nhãn ngữ pháp dùng cho tiếng Latin như cách, thì, thức, số, giống, v.v. Thao tác này cũng không khiến người ta ngạc nhiên vì dưới sự ảnh hưởng của ngữ pháp tiếng Latin - một kiểu ngữ pháp mà thời bấy giờ được xem là chuẩn mực để miêu tả các ngôn ngữ khác, trong đó có cả các thứ tiếng châu Âu. 

 

2.      Ảnh hưởng của Ngữ pháp Đắc Lộ đối với việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt

2.1.Hệ thống khái niệm miêu tả từ loại tiếng Việt

         Các khái niệm được A.De. Rhodes sử dụng miêu tả các đơn vị từ loại trong tiếng Việt có vai trò rất quan trọng với các nhà ngữ học sau ông vì những khái niệm này đã cung cấp một hệ thống nhãn ngữ pháp định sẵn và người ta chỉ việc gán những nhãn đó cho các đơn vị từ vựng có nghĩa tương đương với tiếng Latin hoặc tiếng Pháp về sau này. Sự xuất hiện của khái niệm từ loại dựa trên tiếng Latin trong tiếng Việt là «nguồn cảm hứng» cho những nhà ngữ pháp sau A. De Rhodes như Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Lân, v.v. Theo những nhà ngữ pháp này, tiếng Việt có từ loại và phạm trù này chia thành hai loại: từ biểu thị ý nghĩa từ vựng (thực từ) và từ biểu thị ý nghĩa ngữ pháp (hư từ), và trong mỗi loại có nhiều tiểu loại khác nhau, có ý nghĩa riêng biệt. Việc xác định từ loại dựa trên ngữ nghĩa đã bộc lộ nhiều hạn chế vì một đơn vị ngôn ngữ có thể xuất hiện ở hơn một vị trí cú pháp hay đảm nhận hơn một chức năng cú pháp (điều mà chính A. De Rhodes đã đề cập đến khi ông giải thích về từ «chèo» trong tiếng Việt). Sự bất cập này đã dẫn đến sự hình thành quan điểm xác định từ loại theo chức năng cú pháp của đơn vị từ vựng ở cấp độ ngữ đoạn (Lê văn Lý, Nguyễn tài Cẩn, Lưu Văn Lăng và Nguyễn Phú Phong) và sau này là cấp độ câu (Nguyễn Tài cẩn). Tuy nhiên, những tồn tại trong việc xác định từ loại vẫn chưa được giải quyết triệt để. Các nhà ngữ pháp học từ cuối thế kỷ XX đến nay có một hướng tiếp cận mang tính «thoả hiệp»: kết hợp hai tiêu chí nội dung và hình thức để xác định phân từ tiếng Việt thành thực từ và hư từ, sau đó, sử dụng đặc trưng cú pháp để phân định một đơn vị từ vựng nào đó thuộc loại nào. Thoạt nhìn, hướng tiếp cận này có vẻ rõ ràng và khách quan, nhưng sự rối rắm lại nảy sinh khi tiêu chí phân định một đơn vị ngôn ngữ là thực từ hay hư từ không nhất quán. Chẳng hạn, về «đại từ» có tác giả xem là danh từ, tức là thực từ (Nguyễn Kim Thản 1963; Lê Cận-Phan Thiều 1983), có tác giả xem là từ loại trung gian giữa thực từ và hư từ (UBKHXH 1983 ; Đinh Văn Đức 1986; Lê Biên 1993, Diệp Quang Ban 1996). Gần đây, kế thừa hướng tiếp cận nội dung-hình thức, Nguyễn Hồng Cổn (TCNN số 2, 2003) đưa ra tiêu chí phân định từ loại dựa trên Ngữ pháp cách của Fillmore (1968) và Ngữ pháp chức năng (Dik 1989, Cao Xuân Hạo 1991, Van Valin 1994). Nội dung của tiêu chí này là các tham tố (tác giả gọi là đối tố) trong mệnh đề/phát ngôn được xác định trong quan hệ với vị từ trong một khung ngữ nghĩa, và về mặt hình thức những tham tố này được biểu thị bằng từ, ngữ hoặc một liên hợp. Cho ví dụ sau đây:

 

 

Trời

đẹp

Thành tố

đối tố

vị tố

Nghĩa (Vai nghĩa)

đương thể

trạng thái

Hình thức

từ

từ

 

 

chưa đọc

quyển sách này

Thành tố

đối tố 1

vị tố

đối tố 2

Nghĩa (Vai nghĩa)

tác thể

hành động

đối thể

Hình thức

từ

ngữ

ngữ

 

 

Tôi

đã gửi

thư và ảnh

cho các bạn ấy

Thành tố

đối tố 1

vị tố

đối tố 2

đối tố 3

Nghĩa (Vai nghĩa)

tác thể

hành động

đối thể

nhận thể

Hình thức

từ

ngữ

liên hợp

(giới) ngữ

 

Qua ba ví dụ trên, ta thấy sự phân định trở nên phức tạp hơn, song hiệu lực của nó vẫn chưa rõ ràng. Ở đây, ta thấy có sự trộn lẫn các đơn vị thuộc bình diện ngôn ngữ với tư cách là hệ thống và bình diện ngôn ngữ với tư cách là lời nói vì nếu xét ở phương diện câu, các thành tố cấu tạo câu phải là ngữ đoạn chứ không phải là từ. Một ngữ đoạn được định nghĩa bằng chức năng cú pháp  của nó mà không cần quan tâm đến cấu trúc nội tại của nó.

         Như vậy, việc xác định X thuộc từ loại nào vẫn là một vấn đề chưa có lời đáp thoả đáng. Theo chúng tôi, sự bế tắc còn đó là do vẫn áp dụng bộ máy khái niệm của các ngôn ngữ biến hình để miêu tả các đơn vị của ngôn ngữ phi hình thái như tiếng Việt. Vẫn còn đó những bất đồng về từ loại : tiếng Việt có đại từ nhân xưng hay không? Từ loại trạng từ không tồn tại trong tiếng Việt, và chức năng của nó do tình từ đảm nhận. Vậy, phải giải thích thế nào về phương diện ngôn ngữ học đại cương khi cho rằng tính từ bổ nghĩa cho động từ?

 

2.2.      Hệ thống khái niệm biểu thị các chức năng ngữ pháp

2.2.1.      Khái niệm chủ ngữ

         Tác giả quyển từ điển có thể là người đầu tiên sử dụng các khái niệm như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, v.v. trong tiếng Latin để miêu tả các thành phần câu tiếng Việt.

         Trong tiếng Latin, danh cách (nominativus) biểu thị chức năng cú pháp của chủ ngữ của động từ ngoại động hoặc nội động. Trên cơ sở này, A. De Rhodes cho rằng trong tiếng Việt chủ ngữ phải đứng trước động từ : mầy cười : tu rides ; tôi mến Chúa : ego amo Dominum, còn nếu trật tự này đảo ngược thì «mầy » không còn là chủ ngữ nữa mà sẽ trở thành đối cách (accūsātīvus) hay bổ ngữ của động từ: cười mầy: rident te ; Chúa mến tôi: Dominus amat me.

         Như vậy, các đơn vị cú pháp tiếng Việt được A. De Rhodes miêu tả dựa trên ngữ nghĩa mà các vai ngữ pháp của tiếng Latin chuyển tải. Trong tiếng Latin, chủ ngữ biểu thị chủ thể hành động, đối tượng chịu tác động hay đang ở trong một trạng thái hay thuộc tính nào đó:

 

         pater amat filium với pater (bố) là danh cách chủ ngữ = chủ thể của hành động,

         filius amatur a patre với filius (con trai) là danh cách chủ ngữ = đối tượng chịu tác động.

Homo magnus est với homo (người đàn ông) là danh cách chủ ngữ = chủ thể có thuộc tính cao lớn (magnus)

 

Tiêu chí ngữ nghĩa này được sử dụng rộng rãi để xác định chủ ngữ trong nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là vì sao các vai nghĩa khác nhau như vậy lại được gọi chung bằng một thuật ngữ duy nhất là chủ ngữ. Trong thực tế, có bổ ngữ trực tiếp hoặc gián tiếp cũng được gán cho các nhãn ngữ nghĩa như chủ ngữ (chẳng hạn Tôi thích bộ phim này). Như vậy, người ta khó mà dựa trên những tiêu chí như vậy để phân biệt chủ ngữ và bổ ngữ trực tiếp.

         Để giải quyết khó khăn này, nhất thiết phải đứng trên bình diện ngữ pháp để xác định một phạm trù ngữ pháp, và cụ thể ở đây là chủ ngữ bằng những đặc trưng ngữ pháp, chứ không phải ngữ nghĩa như trên. Song, xác định thế nào là chủ ngữ ngữ pháp cũng là điều không dễ dàng chút nào. Trong bài « Topic, pronoun, and Grammatical Agreement » đăng trong “Subject and Topic,do Ch.N.Li chủ biên,từ trang 149188, Givón (1976) cho rằng sự phù ứng giữa vị từ với chủ ngữ và với bổ ngữ như trong các thứ tiếng Ấn – Âu, vốn là sự phù ứng giữa chủ đề và vị từ. Chẳng hạn trong hai câu tiếng Pháp dưới đây :

 

a.       J’ai vu cette fille à la gare. (Tôi gặp cô gái này ở ga xa lửa)

 

Vị từ phải phù ứng với chủ ngữ « je », còn trong ví dụ dưới đây, ta lại thấy vị từ phù ứng với bổ ngữ trực tiếp :

 

b.      Cette fille, je l’ai vue à la gare. (Cô gái này, tôi gặp cô ấy ở ga xe lửa)

 

Vị từ «vue» phải phù ứng với giống và số của với đại từ bổ ngữ trực tiếp «l’» (= La) hồi chỉ đề ngữ «cette fille» ở đầu câu.

         Cũng theo Givón, các ngôn ngữ Ấn – Âu vốn là những thứ tiếng có trật tự từ SOV, có chủ đề đứng đầu câu, tiếp đến là bổ ngữ, rồi mới đến vị từ. Khi chủ đề hay bổ ngữ được đánh dấu nó được lặp lại bằng một đại từ như trong câu (b) trong tiếng Pháp. Đại từ hồi chỉ này sau đó trở thành yếu tố đánh dấu cách, còn chủ đề thường cách hoá và trờ thành chủ ngữ ngữ pháp (dẫn theo Cao Xuân Hạo, tr. 56).

         Givón dự báo những ngôn ngữ nào không dùng đại từ hồi chỉ như trên, hay dùng đại từ zero  không chuyển từ cầu trúc đề thuyết sáng chủ vị có sự phù ứng giữa ngữ pháp giữa chủ ngữ và vị ngữ. Tóm lại, cấu trúc chủ-vị là kết quả của quá trình hình thái hoá, ngữ pháp hoá cấu trúc đề-thuyết dẫn đến sự ly khai giữa hai cấu trúc này. Trên thế giới, về mặt loại hình học, người ta có thể phân các ngôn ngữ thành những ngôn ngữ thiên chủ đề (topic prominent languages), những ngôn ngữ thiên chủ ngữ (subject prominent languages) và những ngôn ngữ có cả hai dạng cấu trúc này (như tiếng Nga). Talmy Givón (1979) trong công trình rất nổi tiếng «On Understanding Grammar» (tr. 223) phân định ngôn ngữ theo cách thức thông báo :

-         Ngôn ngữ sử dụng phương thức dụng pháp (1)

-         Ngôn ngữ sử dụng phương thức cú pháp (2)

Trong loại hình (1), ngôn ngữ có cấu trúc đề-thuyết, còn loại hình (2) ngôn ngữ có cấu trúc chủ-vị ; trật tự từ trong loại (1) có chức năng phân định cái cũ/mới (danh ngữ biểu thị cái cũ đứng đầu, danh ngữ biểu thị cái mới theo sau, còn trong loại (2) trật tự từ có chức năng phân định nghĩa của cách ; tham số quan trọng khác là ngôn ngữ loại hình (1) không dùng hình thái học trong ngữ pháp, loại hình (2) sử dụng hệ thống hình thái ngữ pháp phức tạp. Dựa trên những tham số này ta thấy tiếng Việt thuộc loại hình ngôn  ngữ (1) hơn là loại hình ngôn ngữ (2).

         Như vậy, việc xác định các thành tố cú pháp như chủ ngữ dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa khiến người ta cách ly bình diện cú pháp, và một trong những hệ lụy của nó là xác định phạm trù ngữ pháp khác, chẳng hạn như « ngôi » trong tiếng Việt cũng trở nên thiếu chính xác: không phân biệt « ngôi » với tư cách là phạn trù ngữ pháp với « ngôi » với tư cách là vai giao tiếp (ngữ nghĩa).

 

2.2.2.      Các khái niệm miêu tả phạm trù ngữ pháp của từ loại tiếng Việt

         Như một hệ luỵ của khái niệm chủ-vị, hệ thống khái niệm biểu thị các phạm trù ngữ pháp của động từ trong tiếng Latin được A. De Rhodes sử dụng miêu tả những hiện tượng tương ứng về mặt ngữ nghĩa với những hình thái động từ trong tiếng Latin. Ông nhận thấy ngay sự khác biệt giữa động từ tiếng Việt và đơn vị tương ứng trong tiếng Latin, song vì mục đích miêu tả hệ thống ngữ pháp là dành cho người nước ngoài mà có thể chủ yếu là các nhà truyền giáo hay các nhà thám hiểm…nên việc miêu tả nghĩa của câu tiếng Việt, hay cụ thể hơn là nghĩa của động từ bằng các công cụ ngữ pháp tiếng Latin là chuyện không tránh khỏi.

         Tuy nhiên, các khái niệm ngữ pháp sử dụng miêu tả tiếng Việt như vậy để lại nhiều hệ lụy về sau. Những hệ lụy này càng nặng nề với sự ảnh hưởng của tiếng Pháp, một mô hình tiếng Latin điển hình. Những hệ lụy đó là sự bất đồng có thể không bao giờ két thúc trong giới Việt ngữ. Người ta có thể nói đến những bất đồng ấy qua những nội dung sau:

-         Tiếng Việt là thứ tiếng “hữu thể vô thì” hay có “thì”?

-         Thái bị động có hay không có trong tiếng Việt?

-         Ngôi, thức có tồn tại hay không?

-         Từ đó, đại từ nhân xưng của tiếng Việt có hay không có?

-         Danh từ tiếng Việt có số đơn, số phức hay không?

-         Đơn vị bổ nghĩa cho động từ gọi là trạng từ hay tính từ?

          

Hệ luỵ quan trọng nhất là sự nhập nhằng giữa nội dung và hình thức, giữa nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp của một đơn vị ngôn ngữ. Điều này khiến việc tìm kiếm một cách thức miêu tả ngữ pháp tiếng Việt hoàn toàn dựa trên loại hình của tiếng Việt, chứ không thể áp định những đặc trưng được cho là «phổ quát» vào việc miêu tả. Không ai có thể bác bỏ tính phổ quát của một số phạm trù ngôn ngữ, chẳng hạn như phạm trù danh từ và phạm trù động từ. Tuy nhiên, cần phải đứng trên «mảnh đất tiếng Việt» để miêu tả tiếng Việt mới có thể có một hệ thống ngữ pháp phù hợp với tiếng Việt.   

 

Kết luận:

Tác giả quyển từ điển Việt - Bồ - La có những đóng góp đáng trân trọng nỗ lực hệ thống hoá một ngôn ngữ vẫn còn quá xa lạ với học giả phương Tây. Sự tiên phong của ông đã cung cấp một hệ thống khái niệm ngôn ngữ giúp việc miêu tả Việt ngữ thuận lợi hơn.

Bên cạnh những đóng góp này, và như đã nói ở trên, nỗ lực lý giải ngữ pháp tiếng Việt của ông chỉ nhằm mục đích « phổ cập » ngôn ngữ này cho các nhà truyền giáo khác hoặc những người phương Tây đặt chân đến Việt Nam sau đó, đã sử dụng như một «định đề » cho những miêu tả sau này, khiến ngữ pháp tiếng Việt được giải thích dưới nhiều góc độ khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau.

 

 

Thư mục tham khảo

  1. Aubaret, gabriel (1867). grammaire annamite, suivie d'un vocabulaire françaisannamite et annamite-français, paris, impr. impériale.
  2. Barbier, victor. (1924 / 1925). grammaire annamite, hanoi, imprimerie d'extrême-orient.
  3. Cadière, léopold. (1958). syntaxe de la langue viêtnamienne, paris, publications de l'ecole française d'extrême-orient.
  4. Cao xuân hạo (2004). Tiếng việt – sơ thảo ngữ pháp chức năng. nxb giáo dục, tp.hcm
  5. Colombat, bernard dir. (1998-2000). corpus représentatif des grammaires et des traditions linguistiques, histoire épistémologie langage, hors-série 2 & 3, paris.
  6. Diguet, edouard (1892). éléments de la grammaire annamite, paris, imprimerie nationale.
  7. Đinh Văn Đức. (2001). Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại’, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
  8. Givón, T (1979). On Understanding Grammar. Academic Press New York.
  9. Grammont, M & Lê Quang Trinh (1912). « Étude sur la langue annamite », Mémoires de la Société de Linguistique de Paris, t. 17, 201-241 et 295-310, Paris, Librairie.

10.  Nguyễn Tài Cẩn. Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, 1975.

  1. Rhodes, A. De (1651). « Linguae annamiticae seu Tunchinensis brevis Declaratio », in Dictionarium annnamiticum [sic pour annamiticum] lusitanum et latinum, ope Sacrae congregationis de propaganda fide in lucem editum ab Alexandro de Rhodes..., Romae, typis et sumptibus ejusd. Sacr. Congreg.
  2. Trần, trọng kim ; bùi, kỷ. ; phạm, duy khiêm (1940). grammaire annamite, hanoi, lê-thang.
  3. Trương, Jean baptiste Pétrus vĩnh ký (1867). abrégé de la grammaire annamite, saigon, imprimerie impériale.
  4. Trương, Jean baptiste Pétrus vĩnh ký (1883). grammaire de la langue annamite, saigon, c. guillaud et martinon.

 

 

[1]. Plurale et singulare ex adiunctis antecedentibus et consequentibus colligitur; neque enim in nominibus sunt ullae declinationes, vel numeri, vel casus... (tr.11)

[2] Possunt tamen haec omnia ex quadam analogia ad nostras explicari linguas.(tr.11)

[3] Trong tiếng Latin, từ magis chỉ dùng khi tính từ không có biến cách so sánh, nhưng tính từ pulcher có dạng so sánh là pulchrior. Không biết tại sao A.De Rhodes lại dùng magis.

[4] Tác giả dùng thuật ngữ « đại từ hỗ tương » (rĕcīprŏca), nhưng ví dụ lại là đại từ phản thân (theo ngôn ngữ học hiện đại)

[5] “est”: chỉ tố đánh dấu động từ chủ động có hình thức bị động trong tiếng Latin, ngôi thứ ba, số ít, giống đực, thì quá khứ hoàn thành.

[6] Trong bản dịch Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, linh mục Trần Khắc Xuyên dùng thuật ngữ thể.

[7] Kiểu từ ghép trong tiếng Việt như dạy dỗ, nhìn thấy

[8] Trong nguyên tác tác già dùng Nominativus, nghĩa là danh cách.

Tin bài liên quan
Sample Article

Các từ của các dân tộc anh em phía Nam trong tiếng Việt

Dân tộc Kinh sống cộng cư với 53 dân tộc anh em trên mảnh đất hình chữ S qua hàng nghìn năm. Do điều kiện địa lý và lịch sử đặc biệt đó, dân tộc Kinh đã tiếp thu khá nhiều từ của các ngôn ngữ dân tộc anh em. Trong số các dân tộc này, hai dân tộc phía Nam có ngôn ngữ tiếp xúc nhiều với tiếng Việt là tiếng Chăm và tiếng Khơ-me.