Ngôn ngữ văn xuôi Nam Bộ đầu thế kỷ XX trong Nghĩa hiệp kỳ duyên của Nguyễn Chánh Sắt

Nói đến văn xuôi Nam Bộ đầu thế kỷ XX, người ta hay nhắc đến Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản… Mặc dù không phải là nhà văn đóng vai trò tiên phong như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản và cũng không thu được nhiều thành tựu như Hồ Biểu Chánh nhưng Nguyễn Chánh Sắt thực sự được biết tới như một cây bút tiểu thuyết quốc ngữ Nam Kỳ nổi bật ở thời kỳ đầu. Trong khoảng thời gian từ năm 1915 đến năm 1930, nhiều tác phẩm của ông như Trinh hiệp lưỡng nữ (1915), Gái trả thù cha (1920), Tình đời ấm lạnh (1922), Lòng người nham hiểm (1925), Giang hồ nữ hiệp (1928)… đã được độc giả Nam Kỳ ưa chuộng, hâm mộ. Đặc biệt tiểu thuyết Nghĩa hiệp kỳ duyên (Chăng Cà Mum) được viết vào năm 1920 của Nguyễn Chánh Sắt đã trở thành một tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ trong thời kỳ đầu tiên của một dòng văn học mới, mở đầu cho thể loại tiểu thuyết xã hội rất được ưa chuộng ở Nam Kỳ lục tỉnh. Cuốn tiểu thuyết từng được đánh giá là “một tác phẩm tiêu biểu của bộ môn tiểu thuyết được hình thành bằng kết hợp những truyền thống về truyện có sẵn của văn học Việt Nam với những đặc tính của tiểu thuyết phương Tây”. Tác phẩm này còn được xem là một cột mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển theo chiều hướng hiện đại trong lĩnh vực ngôn ngữ văn xuôi và đặc biệt chất Nam Bộ thể hiện đậm nét qua từ ngữ, văn phong trong sáng, bình dị, mộc mạc. Trong bài viết này, chúng tôi muốn giới thiệu những nét đặc sắc trong ngôn ngữ văn xuôi Nam Bộ đầu thế kỷ XX trong Nghĩa hiệp kỳ duyên của Nguyễn Chánh Sắt.

1.Sự hòa trộn giữa từ vựng khẩu ngữ Nam Bộ với từ vựng sách vở Nho học

Đọc Nghĩa hiệp kỳ duyên người đọc dễ dàng nhận ra đặc trưng sử dụng từ ngữ nổi bật nhất là sự hòa trộn khá đặc biệt giữa lớp từ ngữ hội thoại mộc mạc, hồn nhiên đậm chất Nam Bộ với những từ ngữ Hán Việt cầu kỳ, khuôn sáo, mang màu sắc sách vở.

1.1.            Đưa ngôn ngữ hội thoại vào văn chương

Từ ngữ Nam Bộ trong Nghĩa hiệp kỳ duyên đã góp phần tái hiện chân thực màu sắc sinh động của cuộc sống người dân Nam Bộ đầu thế kỷ XX. Các từ láy tượng thanh, tượng hình giàu sức gợi tả đã đi vào trong câu văn xuôi một cách hết sức tự nhiên. Ngay từ câu văn mở đầu tác phẩm, đã có một số từ láy xuất hiện:

Vừa cuối tiết thu, trời chiều mát mẻ: trên nhành chim kêu chiêu – chích, dưới sông cá lội vởn vơ; Lâm- trí Viển tay cầm nhựt báo, tay xách ba-ton (baton), rảo bước thung dung, thơ thẩn lối cầu đường núi Sam là chỗ hẹn hò với tình nhân mà trao lời tâm sự.

Có khá nhiều từ láy được dùng với biến thể địa phương: vởn vơ (vẩn vơ), linh đinh (lênh đênh), bình bồng (bềnh bồng), vậm vở (vạm vỡ), khắp khởi (khấp khởi), thắm thoát (thấm thoát), nhắm nhía (ngắm nghía), gởi gắm (gửi gắm), khắn khích (khắng khít), xẻn lẻn (bẽn lẽn)… Một số từ láy là những từ cũ gần như đã không còn được sử dụng trong phương ngữ Nam Bộ hiện đại: chiêu chích, tấc tưởi, rùng rùng (thức dậy), tường tấc, (nói) lăn líu, xơn xao (bước tới), sảng sốt (tâm thần), khắn khắn (một lòng), (xách gói) xung xăng (đi) thắm thoát. Các tổ hợp láy tư cũng được đưa vào trong câu văn miêu tả khá tự nhiên và giàu hình ảnh: gió gió trăng trăng, (khóc) tấm tức tấm tưởi, mừng quýnh mừng quíu, bồ lốc bồ lem,…Đặt trong văn cảnh cụ thể, các từ láy này đã mang lại sự gợi tả cảm xúc, tình cảm, giúp người đọc dễ dàng hình dung về đặc điểm tâm lý, tình cảm nhân vật:

“Đào Phi Đáng nghe hỏi liền giả ý động lòng, (khóc) tấm tức tấm tưởi mà đáp rằng: (…)”.

Trong các từ láy được sử dụng, chúng tôi nhận thấy có những từ ngữ thể hiện đậm nét tính cách chân chất của người  Nam Bộ. Đọc một đoạn văn ngắn, có thể bắt gặp khá nhiều từ láy có tác dụng gợi tả trạng thái, tính chất của hành động khá chân thực, mộc mạc:

Đến nơi chưa nhằm giờ tan học, nên phải ở dưới ghe mà chờ, trong lòng nóng như lửa đốt, cứ dòm chừng đồng hồ hoài, lúc gần tới năm giờ liền mặc áo bịch khăn rồi xách dù lên bờ tìm đên trước trường học, cứ đi qua đi lại mắt lom lom ngó chừng trong trường chờ cho học trò đi ra đặng đón hỏi thăm Lâm Trí Viển. Còn đang lóng nhóng ngoài đường, vùng nghe tiếng trống trong trường: Thùng, thùng…”.

Bên cạnh đó, Nghĩa hiệp kỳ duyên còn thu hút người đọc bởi nét hồn nhiên, sinh động của các từ ngữ hội thoại được dùng phổ biến trong lời thường ngày của người dân đương thời như: rù quến, ngó sửng, cột lưng (lận lưng), nhứt nhứt (luôn luôn), thả rểu, (mặt mày) tái lét, vùng khóc ròng, (ở) đậu bạc, ăn mặc phủ phê, trộng tuổi, huôi hút (một mình), hẩm hút, đùm đậu, tấc tưởi (cái thân nó), nhào ngữa dảy tê tê, sanh bụng tẹo, hưởn (đi), đục (nắng), đứng trân, khuya hoắc, trong mình có tịch, té ra, cấm nhặc, mét thót, nhảy a lại, nổi xung, đá nhầu… Trong tác phẩm, tác giả còn sử dụng cả từ ngữ lóng hiếm hoi:

Chẳng dè họ chèo thẳng lên Nam Vang rồi chở luôn vô Ô Đông mà bán tôi cho một người đầu gà đít vịt (người lai giữa người Hoa và Khmer- theo chú thích của truyện), mà người ấy lại thương tôi lắm (…).”.

Lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Nam Bộ đã được Nguyễn Chánh Sắt mang vào trong Nghĩa hiệp kỳ duyên một cách tự nhiên, dung dị như chính bản thân cuộc sống giản dị, hiền hòa, phóng khoáng của những người con đất phương Nam: chẳng nệ tốn hao, nhảy phóc xuống tàu, trịch áo bày bên vai trái, chẳng hề dám đơn sai một mảy, bồng phức tôi xuống ghe rồi nhổ sào chèo tuốt, mừng quá đổi mừng, làm tuồng mắc cở, ngó lơ láo, nhai trầu tích toát, xỉa thuốc ba ngoai, vuốt bụng cái xẹp, làm màu từ chối đôi ba phen, chạy về một nước, dùng phát nóng lạnh mê mang, sá chi đôi ba cái bông quèn, tính phứt cho rồi, nhảy phóc lên đánh chạy như giông thẳng ra Xà –Tón, thà là chết phức cho rồi, vùng khóc ròng, lỏn ra ngả sau mà dông mất

Sự phong phú của lớp từ vựng khẩu ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, còn thể hiện ở những hình thức định danh có sự phân biệt tinh tế về nghĩa và nhiều hình thức biểu đạt đồng nghĩa. Để diễn đạt hành động nói, có nhiều cách biểu đạt để chỉ những cách nói khác nhau: nói rước (nói đón đầu), nói sướt một hồi thì đà êm chuyện, nói trớ (nói lảng sang chuyện khác)... Để diễn đạt cái chết cũng có nhiều cách thể hiện: đến ngày hết số, chết, chết tươi, thác… Biểu đạt niềm vui cũng có nhiều cách: mừng chẳng xiết mừng, lòng mừng khắp khởi, mừng quá mà nói lố, mừng vui chẳng xiết, mừng rỡ chẳng cùng, mừng rỡ vô cùng, mừng thầm…

1.2. Những từ ngữ cũ, từ ngữ Hán Việt vẫn giữ vai trò chủ đạo trong câu văn miêu tả và trần thuật 

Thật sự không công bằng nếu như chỉ đề cập đến sự phong phú của những từ ngữ hội thoại mang màu sắc khẩu ngữ thông tục trong tác phẩm, Nghĩa hiệp kỳ duyên là một cuốn tiểu thuyết mà ở đó người ta có thể tìm thấy những từ cũ, những cách diễn đạt rất xưa cũ của tiếng Việt đầu thế kỷ XX.

Có những sự vật được định danh theo cách tri nhận của người Việt ở thời kỳ này: nhà hàng tây (khách sạn), khạo hò, lái biển, trẻ bạn (phu chèo), khán quan (độc giả), con đòi (người giúp việc), lính đi thơ (người đưa thư),  thông ngôn giây thép (phiên dịch bưu điện), nhà giấy (văn phòng), đàn thổ (người dân tộc ít người)… Không ít từ cũ là từ Hán Việt có ý nghĩa khá trừu tượng và mang màu sắc sách vở cứng nhắc, khô khan: đốn thủ, khách địa, vi tiện, nhân quần xã hội, (giả chước) thuận tùng, hiệp cẩn, lộ đồ, phục thị, vi tiện, an hảo, ký ngụ, tấu xảo, liểm dung, đình trú, khôi tâm (với thế sự), bôn đào, khuẩn bức, minh linh, kỳ trung nài nghi…Bên cạnh đó, nghĩa của một số từ ngữ ở thời kỳ này so với tiếng Việt hiện nay đã có nhiều thay đổi: sắm sửa thuốc men (chuẩn bị thuốc men), ra tài thủ đoạn (thể hiện sự tài giỏi), đề huề dắc nhau ra đi (cùng dắt nhau đi), tủi cái bổn phận (tủi thân), nét mặt phương phi (mặt mũi sáng sủa), trai tơ (trai trẻ), gái tơ (gái trẻ), sảng khoái tâm thần (sảng khoái tinh thần)…

Điểm nổi bật trong tác phẩm này là việc dùng rất nhiều thành ngữ Hán Việt để miêu tả hình dáng, phẩm chất, tâm lý hoặc hành động của nhân vật:

Tả hình dáng, vẻ đẹp và thể chất của người con gái: bá mị thiên kiều, ngư trầm lạc nhạn, mình hạc xương mai, nhược chất liểu bồ…

Tả phẩm chất: thiết thạch tâm trường, thọ ơn mạc vong, thi huệ vô niệm, cung thật ngôn lương, chánh nhân quân tử, trâm anh thế phiệt, từ nghiêm nghĩa chạnh, quen (quyến) gió rủ trăng, sớm mận tối đào, trưa chim chiều gió…

Trong tổng số 66 thành ngữ được sử dụng trong tác phẩm, chiếm đại đa số là thành ngữ đối Hán Việt (39/66), được dùng ở nguyên dạng như: bá mị thiên kiều, ngư trầm lạc nhạn, trinh tịnh u nhàn, bất phụ sở danh, nhứt ngôn thuyết quá tứ mã nang (nan) truy, thiết thạch tâm trường, thọ ơn mạc vong, thi huệ vô niệm, lục châu thiên hạ, cung thật ngôn lương, chánh nhân quân tử, nhược chất liểu bồ, kỳ hoa dị thảo, thủy tú sơn thanh, thanh sơn bất lão, lục thủy trường tồn… hoặc dùng ở dạng chuyển dịch sang các yếu tố thuần Việt: kết cỏ ngậm vành (xem Tả truyện), trưa chim chiều gió, mai nhành chim chiều lá gió (/lá gió cành chim- Chi nghênh nam bắc điểu; Diệp tống vãng lai phong- Chuyện nàng Tiết Đào đời Đường làm thơ), tạc dạ ghi xương (khắc cốt ghi tâm), kết tóc xe tơ (Thơ Tô Vũ: Kết phát vi phu thê, ân ái lưỡng bất nghi)…

Tuy nhiên, các thành ngữ thuần Việt dung dị màu sắc bình dân cũng được tác giả lưu ý sử dụng: bưng bích (bít) miệng bình, thần không hay quỷ không biết, ăn cơm bữa, ngày lụn tháng qua, chạy như dông, lao thần mệt xác, trộm dấu thầm yêu, ơn trọng nghĩa dày, (bắt) thương da thương diết, no cơm ấm áo, sớm mận tối đào, ơn trọng đức dày, nghĩa cũ tình xưa… Trong số đó, có một vài thành ngữ đã mượn ý và cấu trúc câu văn tiếng Hán để diễn đạt lại theo kiểu của người Việt: sớm mận tối đào (sớm Ngô tối Sở), lao thần mệt xác (lao tâm khổ tứ)… Những cách biến đổi này cho thấy mặc dù ảnh hưởng của Hán học vẫn còn sâu đậm trong văn phong tiểu thuyết Nam Bộ thời kỳ đầu nhưng xu hướng Việt hóa và các yếu tố thuần Việt đã dần khẳng định vai trò và vị trí trong sự diễn đạt của câu văn tiếng Việt hiện đại.  

2. Sự hòa phối giữa câu văn biền ngẫu với những ngữ đoạn mang dáng dấp của câu văn Pháp

Như hầu hết tiểu thuyết Nam Bộ thời kỳ đầu, Nghĩa hiệp kỳ duyên của Nguyễn Chánh Sắt vẫn chưa thoát khỏi lối văn biền ngẫu đăng đối. Có rất nhiều câu văn dài lê thê (123 chữ- trang 14) gồm nhiều vế đối xứng, trùng điệp. Không quá khó khăn để tìm thấy trong các trang viết những câu văn biền ngẫu như sau:

- “Cho nên khi nàng vừa trộng “ra mả con gái rồi” thì tánh không ưa bề trinh tịnh u nhàn dạ lại muốn những việc ong chường bướm cháng.”

- “(…) thiệt sức học tôi tuy chẳng dám sánh cùng Biển Thước, chớ nghề hay tôi cũng xấp xỉ với Hoa Đà.”

- “(…) mới tính cậy tin ong xứ điệp, quyết mong thả lý gieo đào; ban đầu còn xa sau hóa ra gần, đến khi giáp mặt nhau rồi, hai bên cũng liết, hai lòng cũng ưa.

            Tuy nhiên bên trong những câu văn biền ngẫu lại có những ngữ đoạn mà trật tự các thành tố mang dáng dấp của câu văn Pháp:

- “Nguyên Trịnh- thế - Xương từ bé đến chừ, những mản cần cù lo bề buôn bán trong ngoài muôn việc đều gồm hết, xem sóc có một mình, tháng ngày ràng buộc chẳng ; hở cái tay; đến khi giàu có gia nghiệp trăm muôn, thì lại càng câu thúc hơn nữa, kế thấy con lạc mất, té ra sự cực nhọc rồi kế sự buồn rầu nó dồn dập tới hoài, cho nên chưa được hưởng một ngày thong thả.”

- “Trịnh Thế Xương vừa thấy được cái bớt son trên vai của nàng rồi, ôi thôi, thiệt tôi rất tiếc, không biết bút mực nào mà tả  cho rõ hình dạng cái sự mừng của Trịnh Thế Xương lúc nọ cho khán quan hiểu được”.

-  “Cao- Quấc Thủ lại chúm chiếm cười mà nói rằng: (…)”, “ (…) chừng đó Phi đáng mới làm bộ tức tưởi khóc theo”, “kế thấy dì bán cá ở chợ về, lơn xơn bưng rổ bước vào…”.

Sự ảnh hưởng của tiếng Pháp đối với câu văn tiếng Việt thể hiện rõ ở cấu trúc danh hóa “sự + động/ tính từ” và cấu trúc “tính từ thể cách + động từ”. Đây là một trong những cách làm mới câu văn tiểu thuyết tiếng Việt thời kỳ đầu

Không chỉ khác biệt với văn chương cổ về hình thức câu văn, cách thức miêu tả nhân vật trong Nghĩa hiệp kỳ duyên mặc dù chưa thoát khỏi những công thức mang tính ước lệ như: hình dung yểu điệu, yểu điệu phương phi, hình dung cổ quái… nhưng bước đầu đã có những miêu tả khá cụ thể: da trắng môi son, tóc dài răng nhỏ, tóc mây dài thậm thược, con mắt vàng lườm, nước da như quả táo…

Ngôn ngữ nhân vật chân chất, tự nhiên như ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày mà không mang màu sắc gọt giũa, không bị lệ thuộc nhiều vào những cách nói năng khuôn sáo:

-Ủa! nói vậy té ra bác đây là Ông Trịnh thế Xương sao? Cơ khổ dữ !(...)

- “ Hèn chi người ta nói con nhà học trò cũng phải, thiệt trò em không biết bao nhiêu tuổi mà ăn nói khôn ngoan lễ nghĩa tử tế quá.”

- “Trời đất ơi! Đây với đó có bao xa không biết, phải tôi dè vậy thì tôi nhắn cho ông anh hay đã lâu rồi chớ đâu mà để cho tới ngày nay”.

Thỉnh thoảng trong ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật, có thể tìm thấy những thán từ, tiểu từ tình thái góp phần bộc lộ cảm xúc trong lời nói: ậy, ôi, ủa, cơ khổ dữ,  cơ khổ, ôi thôi, dữ cà…

Tuy nhiên, từ xưng hô giữa các nhân vật vẫn còn giữ được cách xưng hô trang trọng của người Việt xưa. Các nhân vật không có quan hệ thân tộc, xưng hô với nhau rất nghiêm túc, khách sáo. Từ dùng xưng hô ở ngôi thứ 1, chủ yếu là từ “tôi”. Từ xưng hô ở ngôi thứ 2 đa dạng hơn, tùy thuộc vào giới tính và địa vị xã hội hoặc tuổi tác:

 

CÁC NHÂN VẬT

TỰ XƯNG

NGÔI ĐỐI

Lâm Trí Viển - Đào Phi Đáng

Tôi

Đào Phi Đáng - Lâm Trí Viển

Tôi

Thầy

Trần Trọng Nghĩa – Trịnh Phương Lang

Tôi

Trịnh Phương Lang - Trần Trọng Nghĩa

Tôi

Thầy

Trịnh Thế Xương - Lâm Trí Viển

Tôi

Trò em

Lâm Trí Viển - Trịnh Thế Xương

Tôi

Bác

Trịnh Thế Xương – Trần Trọng Nghĩa

Tôi

Cậu em/ Thầy/ Thầy thông

Trần Trọng Nghĩa - Trịnh Thế Xương

Tôi

Bác

Thậm chí, hai nhân vật (nam/nữ) đang có quan hệ tình cảm vẫn có cách xưng hô khá trang trọng và hơi xa cách:

Ủa! nhựt báo thì nhựt báo, mà tôi thì tôi, có cang cập chi nhau, sao lại may cho tôi, thầy nói cái chi lạ vậy?” (Lời Đào Phi Đáng nói với Lâm Trí Viển)

3. Sự kết hợp của kết cấu tiểu thuyết chương hồi với cách kể chuyện hiện đại

Ngay từ tiêu đề tác phẩm, người đọc đã thấy thấp thoáng bóng dáng của kiểu tiểu thuyết “nghĩa hiệp”, “kỳ tình” kiểu Trung Hoa. Câu chuyện được xếp đặt trong cái khuôn quen thuộc theo kiểu tiểu thuyết chương hồi. Truyện được chia làm 16 chương, mỗi chương được giới thiệu khái quát bằng một câu mang nội dung thông tin nổi bật: Lâm Trí Viển dụng mưu, Một chước rất màu, Trịnh Thế Xương mắc kế, Trịnh Phương Lang gặp cứu, Đoàn viên một cửa…Kết thúc truyện vẫn đi theo lối mòn theo kiểu kết thúc có hậu “chánh  nghĩa  thắng  gian tà”, “một nhà đoàn viên”…của  truyện Việt Nam ngày xưa. 

   Tuy nhiên cách mở đầu câu chuyện và cách sắp xếp tình tiết sự kiện đã bước đầu cho thấy Nghĩa hiệp kỳ duyên đã cố gắng thoát ra khỏi những ràng buộc của cách kể chuyện cũ để mang lại sắc thái hiện đại trong bố cục cũng như cách dẫn dắt sự kiện.

Tác phẩm mở đầu bằng khung cảnh hẹn hò giữa đôi tình nhân Lâm Trí Viển và Đào Phi Đáng. Sự xuất hiện của hai nhân vật phụ nhằm dẫn dắt người đọc tìm đến với các nhân vật trung tâm của câu chuyện: cha con Trịnh Thế Xương – Trịnh Phương Lang, đôi uyên ương:  Trần Trọng Nghĩa -Trịnh Phương Lang …cho thấy truyện đã tiếp cận được cách mở đầu và dẫn dắt câu chuyện của tiểu thuyết hiện đại phương Tây.

Tác giả đã để cho nhân vật nói nhiều hơn, hành động nhiều hơn tuy đôi lúc vẫn còn chêm xen những lời bình luận của người kể chuyện (tác giả) kiểu như: chín hấu còn mại hơi đa, cũng là một môn với dì Tư bán cá, rồi đời hết một mạng, rồi đời hết hai mạng, rồi đời hết ba mạng…Ngoài  ra còn có khá nhiều đoạn tác giả tự nói với độc giả (trong vai người kể chuyện) để giải thích thêm cho rõ các tình tiết, diễn biến: Từ đây Phi Đáng mạo nhận làm con của  Trịnh Thế Xương rồi, không ai hay biết chi hết, lẽ thì kêu nàng là Trịnh Phương Lang mới phải, nhưng e khán quan hiểu lộn, nên tôi phải để tên Phi Đáng luôn cho phân biệt. Tất cả những phần này, tác giả luôn lưu ý đặt trong dấu ngoặc đơn (  ).

Trên cơ sở những phân tích bước đầu về ngôn ngữ văn xuôi trong Nghĩa hiệp kỳ duyên của Nguyễn Chánh Sắt, chúng ta hoàn toàn tán đồng với nhận định: “ở Nguyễn Chánh Sắt gần như hội tụ được những phẩm chất của một kiểu người làm văn học tiêu biểu hồi đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ: rành tiếng Pháp, giỏi Hán văn, thông thạo Quốc ngữ (…) kịp thời đón bắt những đổi thay của đời sống xã hội và thị hiếu công chúng, góp phần làm nên diện mạo và chất lượng mới cho văn học.”. Sự am hiểu về ngôn ngữ và đời sống của người dân Nam Bộ đã giúp ông kết hợp được các yếu tố cũ và mới, truyền thống và hiện đại, Đông và Tây để thể hiện trong ngôn ngữ tác phẩm. Mặc dù vẫn còn có một số hạn chế khách quan của văn xuôi hiện đại thời kỳ đầu nhưng Nghĩa hiệp kỳ duyên thực sự xứng đáng là một thành tựu đáng ghi nhận trên phương diện làm mới cho văn xuôi quốc ngữ và góp phần không nhỏ trong tiến trình hình thành phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX.

Huỳnh Thị Hồng Hạnh, In trong " Những vấn đề ngữ văn ".

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huỳnh Tịnh (Paulus) Của (1895), Đại Nam quấc âm tự vị, NXB. Khai trí.

2. Huỳnh Tịnh (Paulus) Của (1895), Đại Nam quấc âm tự vị, NXB. Khai trí.

3. Nguyễn Thạch Giang (2003), Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam (quyển1), NXB Khoa học xã hội.

4. Bằng Giang (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, TP.HCM.

5. Bằng Giang (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, TP.HCM.

6. Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930, NXB ĐH&GDCN, Hà Nội.

7. Bùi Đức Tịnh (1992), Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới, NXB TPHCM.

Tin bài liên quan
Sample Article

Các từ của các dân tộc anh em phía Nam trong tiếng Việt

Dân tộc Kinh sống cộng cư với 53 dân tộc anh em trên mảnh đất hình chữ S qua hàng nghìn năm. Do điều kiện địa lý và lịch sử đặc biệt đó, dân tộc Kinh đã tiếp thu khá nhiều từ của các ngôn ngữ dân tộc anh em. Trong số các dân tộc này, hai dân tộc phía Nam có ngôn ngữ tiếp xúc nhiều với tiếng Việt là tiếng Chăm và tiếng Khơ-me.